“Đoàn binh Tây Tiến” thuật lại một cách sinh động, chi tiết năm tháng chiến đấu oanh liệt, hào hùng của những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Quang Dũng đã rất tỉ mỉ, chu đáo bày tỏ quan điểm của mình khi đặt bút viết “thêm một vài dòng” cùng độc giả: “Những tên người trong truyện này, đều là tên thật cả. Những sự ghi chép đây, tác giả chép nguyên sự thực”.
Lần giở từng trang hồi ký, men theo dòng hồi ức, tác giả mong muốn gợi lại một câu chuyện cũ – khi mà đoàn võ trang Tuyên truyền Biên khu Lào – Việt được thành lập, hạt nhân là một số chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô cũng là lúc tiếng súng kháng chiến toàn quốc mới bắt đầu nổ, công tác chính trị của bộ đội hồi đó nặng ở phần tuyên truyền cho quần chúng tham gia kháng chiến, hiểu mục đích kháng chiến, công tác chính trị còn ở trạng thái đang thành hình.
“Đoàn binh Tây Tiến” cho ta biết thêm về sự tồn tại, tham gia tích cực của đoàn nhạc binh trong Đoàn Võ trang ngày ấy; đồng thời, khẳng định thêm mối quan hệ, truyền thống gắn bó giữa bộ đội ta và bộ đội Lào, qua một trung đội Pa Thét Lào được cử tham gia vào Đoàn Võ trang. Tây Tiến là đơn vị đầu tiên của Việt Nam đi làm nghĩa vụ quốc tế tại Lào, lập những chiến công hiển hách góp phần vào việc đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược khỏi ba nước Đông Dương.
Họ chính là “đại diện cho danh dự người quân nhân trước con mắt nhận xét của dân chúng”. Và nhiệm vụ của đoàn binh ấy là “đi tới những miền chưa có bóng cờ của quân đội Việt Nam, gây cơ sở, gây cảm tình với Nhân dân ở những nơi mà quân đội của khu chúng ta sắp phải hoạt động”.
Sự khốc liệt của chiến tranh là điều có thể lường trước. Điều khiến những người chiến sĩ cảm thấy thương nhớ nhất trên suốt đường hành quân chính là tình cảm yêu thương, đùm bọc, chở che thân tình, ấm áp, chu đáo của bà con dành cho đoàn. “Quân với dân như cá với nước”, để đáp lại tình cảm sâu sắc, chân thành ấy, những người lính của Đoàn Võ trang luôn kề vai sát cánh, không chỉ giúp đào hầm trú ẩn phòng khi giặc tràn tới mà chăm lo cả đời sống tinh thần cho bà con thông qua hoạt động tuyên truyền, “dân vận” thiết thực, bổ ích.
Họ là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần và cũng là người “chế biến” những món ăn tinh thần hấp dẫn cho bà con, xua đi nỗi lo đau đáu, thấp thỏm về chiến tranh. Có điều gì linh thiêng, kỳ diệu hơn khoảnh khắc quân dân nhất tề nghiêm trang đứng dưới lá cờ Tổ quốc, đồng lòng hát vang điệu Quốc ca. Dẫu rằng, giọng đồng bào Thái hát sai hẳn đi, nhưng chính vì điều đó mà khiến cho linh hồn của bài hát càng thêm thấm thía, cảm động.
Người chiến sĩ của Đoàn Võ trang là thế. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn thấy ánh lên nét mơ màng, lãng mạn. Những khúc hát hành quân vang dậy núi rừng.
Chiến trường miền Tây rộng mênh mông; những mũi dùi của địch chọc tứ phía, quân tiếp viện của địch đông gấp ba quân số những đơn vị đang chiến đấu ở khu miền Tây. Người chiến sĩ ở miền Tây phải chống chọi với hai kẻ thù cùng lúc, đó là quân địch và muỗi rừng. Thương binh mỗi lúc một đông lên mà bông băng, thuốc men từ lâu đã thiếu.
Một cái cáng nằm, anh em cũng phải san sẻ cùng nhau. Thiếu thốn là thế nhưng quân và dân ta vẫn luôn đoàn kết một lòng, kiên gan bền chí chống chọi với kẻ thù dẫu chỉ còn chút hơi tàn để hít thở. Anh em trung đội vẫn quyết tâm nằm lại, chia nhau phục kích giặc ở những gốc cây với quyết tâm cao nhất.
Chẳng điều gì có thể lý giải được sự kiên gan bền chí của những người lính ấy, chỉ biết rằng nỗ lực của họ cuối cùng cũng được đền đáp xứng đáng. Những người chiến sĩ đã gần như sức cùng lực kiệt vì bệnh tật, đói rét... đã chiến thắng lũ giặc khỏe mạnh, được trang bị vũ khí tối tân. Đó là chiến thắng của niềm tin, ý chí, nghị lực chiến đấu kiên cường.